Đặc điểm Họ Chanh lươn

Họ này bao gồm các loài cây thân thảo mọc thành búi hay có thân rễ, rất giống như các loài bấc ở bề ngoài. Chúng thuộc về nhóm các thực vật một lá mầm bao gồm vài họ rất giống nhau, như cói, lác (Cyperaceae), bấc (Juncaceae) và cỏ thật sự (Poaceae).

Cây thân thảo sống lâu năm, chủ yếu là đơn tính khác gốc, hiếm khi đơn tính cùng gốc hay lưỡng tính. Các thân rễ thường che phủ bởi các vảy xếp đề lên nhau (lợp); các vảy không lông hay với các kiểu lông đơn (đa) bào khác nhau. Thân cây mọc thẳng, đơn hay phân cành, hình trụ thon, bốn cạnh hap bị ép; các mắt đặc; các khúc đặc hay rỗng. Lá mọc so le, chủ yếu là rải rác dọc theo thân, thường suy giảm thành một bao lá hở với phiến lá thô sơ; bao lá áp ép chặt vào thân hay phồng lên; lưỡi bẹ thường ít hay không có, đỉnh đôi khi thuôn dài. Các cụm hoa đực và cái đôi khi không đồng dạng, gồm 1 tới nhiều hoa dạng bông con hay phân cành nhiều và đôi khi với các lá bắc; các lá bắc con nhiều trấu. Hoa chủ yếu đơn tính, nhỏ; các hoa đực đôi khi với các nhụy lép dạng dấu vết; các hoa cái đôi khi với các nhị lép. Bao hoa thường thành 2 vòng xoắn, hiếm khi suy giảm hay không có; các phân đoạn dạng vảy. Nhị 1-3 (hay 4), ở vị trí đối diện với các đoạn bên trong của bao hoa; chỉ nhị tự do hay hiếm khi hợp sinh; bao phấn 1(hay 2) ngăn, hướng trong hay hiếm khi hướng ngoài, nứt ra theo khe nứt dọc; hạt phấn 2 hay 3 nhân, 1 lỗ. Bầu nhụy 1-3 ngăn; 1 noãn mỗi ngăn, lòng thòng, thẳng. Vòi nhụy 1-3, tự do hay hợp sinh ở gốc; đầu nhụy thuôn dài, thường như lông chim. Quả kiên hay quả nang chia ngăn, thường nhỏ. Nội nhũ nhiều, chứa bột; phôi mầm nhỏ, hai mặt lồi.

Họ Restionaceae có thể là chi phối mang tính khu vực trong các điều kiện thiếu dinh dưỡng, cho dù đó là khí hậu khô hay ẩm. Chính vì thế họ Restionaceae thay thế cho họ Poaceae trong các lớp cỏ tại các loại đất nghèo dinh dưỡng của thảm thực vật fynbos của khu hệ thực vật Cape (Bell et al. 2000). Môi trường sinh sống ưa thích của chúng thường hứng chịu cháy theo mùa, và một vài loài đâm chồi tích lũy tinh bột trong thân rễ của chúng, trong khi các loài khác, không đâm chồi, thì sinh sản bằng hạt (như các loài trong họ Ericaceae). Các rễ nhỏ của họ Restionaceae cũng thường được miêu tả như là rễ mao dẫn (capillaroid roots), với các lông rễ cực kỳ dài và rậm rạp, mặc dù cũng có các kiểu hình thái rễ khác biệt khác (Lambers et al. 2006); các loài Cyperaceae và Proteaceae mọc trong các môi trường nghèo phốtpho giống như thế cũng phát triển một cấu trúc tương tự mà người ta cho rằng là để tạo thuận lợi cho việc hút phốtpho của cây. Một điều thú vị là một nghiên cứu cho thấy tổng chiều dài rễ của các loài cỏ được thử nghiệm là lớn hơn đáng kể so với tổng chiều dài rễ của các loài thuộc họ Restionaceae, mặc dù các lông rễ rậm rạp của họ Restionaceae đã không được tính tới (Bell et al. 2000).

Phát tán hạt nhờ kiến là phổ biến trong nhánh tại châu Phi của họ Restionoideae là Willdenowieae, trong đó các hạt nhỏ có cán phôi dày cùi thịt thu hút kiến (Briggs & Linder 2009).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Họ Chanh lươn http://florabase.calm.wa.gov.au/search/quick?q=Res... http://delta-intkey.com http://delta-intkey.com/angio/ http://delta-intkey.com/angio/www/restiona.htm //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/14761050 http://www.ncbi.nlm.nih.gov/Taxonomy/Browser/wwwta... //doi.org/10.1111%2Fj.0014-3820.2003.tb01513.x http://doi.org/10.1111/j.0014-3820.2003.tb01513.x http://www.efloras.org/florataxon.aspx?flora_id=2&... http://www.efloras.org/florataxon.aspx?flora_id=3&...